Lịch sử tình báo Tình báo

Tình báo sớm được thừa nhận như là một công cụ không thể thiếu trong thuật lãnh đạo đất nước, trong ngoại giao hay chiến tranh. Trong tác phẩm được viết cách đây 2000 năm, nhà lý luận quân sự người Trung Hoa Tôn Tử đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tình báo. Quyển sách của ông mang tên Binh pháp Tôn Tử (khoảng năm 500 TCN) đã đưa ra chi tiết về việc tổ chức một hệ thống gián điệp bao gồm cả những điệp viên hai mang và những kẻ đào ngũ. Tuy nhiên, trước khi chủ nghĩa dân tộc phát triển và sự phát triển của quân đội thường trực cũng như các thiết lập ngoại giao thì cơ quan tình báo không được các nhà cầm quyền và các tướng lĩnh quân sự tổ chức một cách thống nhất.

Thế kỉ 19

Có thể nói tình báo chính trị lần đầu tiên được sử dụng một cách có hệ thống bắt đầu do Joseph Fouché, duc d’Otrante, bộ trưởng cảnh sát trong cuộc cách mạng Pháp và triều đại của Napoleon. Dưới quyền chỉ huy của Fouché, một mạng lưới điệp viên cảnh sát và những điệp viên chuyên mặc thường phục hoạt động bí mật để nắm rõ tiềm lực của những người theo phái Jacobin và của những người bảo hoàng phản động. Chính khách người Áo, Prince von Metternich cũng thành lập một tổ chức gián địêp quân sự và chính trị có hiệu quả cao vào đầu thế kỷ 19.

Trong thời gian giữa thế kỉ 19, cảnh sát mật của Phổ (nay là lãnh thổ thuộc Đức) được cải tổ lại và sử dụng với nhiệm vụ bảo vệ an ninh bên ngoài cũng như bên trong quốc gia. Hệ thống tình báo Phổ đã đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất đế chế Đức. Nó cũng khống chế Pháp với một mạng lưới 30 ngàn điệp viên đã góp phần vào chiến thắng của Đức trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871. Tuy nhiên, mãi đến những năm của thế kỷ 19 thì các cục tình báo của các quốc gia hiện đại mới hoạt động thường xuyên.

Đầu thế kỷ 20

Hệ thống tình báo đã hỗ trợ người Nhật chiến thắng người Nga trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905). Khi chuẩn bị Chiến tranh thế giới thứ nhất, người Đức đã đưa vào Pháp rất nhiều điệp viên, một vài trong số đó cải trang thành những đại diện thương mại, giáo viên, lao động nông nghiệp hoặc người hầu. Bị cáo gián điệp nổi tiếng nhất là Mata Hari, một diễn viên múa người Java ở Pari đã bị người Pháp hành quyết. Các điệp viên người Đức cũng có những cố gắng nhằm phá hoại hệ thống phòng thủ của Mỹ cả trước và sau khi Mỹ nhảy vào Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đã tham chiến với những đội ngũ tình báo không đầy đủ và các tin tình báo trong các cuộc chiến rất nghèo nàn. Những bài học của cuộc chiến tranh này là cùng với những tiến bộ vượt bậc về kĩ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin liên lạc và hàng không, đã thúc đẩy một sự phát triển lớn các cơ quan tình báo. Điều này càng cấp bách hơn nữa bởi sự có mặt của chính quyền Phát-xít ở châu Âu và chế độ độc tài quân sự ở Nhật Bản và sự ra đời của các cơ quan phản gián chẳng hạn như Gestapo của Đức Quốc xã. Những phát triển này đã dẫn đến sự ra đời những hệ thống cơ quan phản gián của các nước dân chủ.

Chiến tranh thế giới thứ hai

Chiến tranh thế giới lần thứ hai là tác nhân kích thích lớn cho sự phát triển của các cơ quan tình báo trên khắp thế giới. Kĩ thuật quân sự và thông tin liên lạc hiện đại đã giúp cho thông tin trở nên chính xác và nhanh chóng cũng như những nỗ lực bảo vệ thông tin nhạy cảm. Một vài trận đánh lớn trong Chiến tranh thế giới thứ II thực sự là những trận đánh của tình báo và phản gián. Trong những năm gần đây chỉ có một vài kỳ công và thất bại trong cuộc chiến bí mật này được tiết lộ. Nổi tiếng là điệp vụ chơi hai mặt (Operation Double Cross), trong đó người Anh đã bắt giữ gần như tất cả các điệp viên của Đức tại Anh trong thời gian chiến tranh. Và Anh cùng với đồng minh cũng đã bẻ khóa mật mã của Đức và xâm nhập vào nhiều sóng truyền tin bí mật của quân địch.

Trận Trân Châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 là một thành công tình báo lớn của Nhật và tình báo Mỹ là kẻ thất bại. Thất bại này đã thúc đẩy sự phát triển bộ máy tình báo khổng lồ của Mỹ sau chiến tranh. Trước Chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ hầu như không có hệ thống tình báo; sau chiến tranh CIA trở nên có tiếng bởi tai mắt khắp nơi, nối tiếp với các cơ quan tình báo như MI-6 của Anh, KGB của Liên Xô, SDECE (the Service de Documentation Extérieure et de Contre-Espionage) của Pháp, Cục tình báo đối ngoại của Israel, Văn phòng sự vụ xã hội của Trung Quốc và đông đảo các cơ quan khác trong cộng đồng tình báo và phản gián thế giới.

Cuối thế kỷ 20

Giữa những năm 1970, như một kết quả của sự tan vỡ ảo tưởng của cuộc chiến tranh Việt Nam, vụ bê bối Watergate và chính sách lắng dịu, nhiều người Mỹ bắt đầu đặt câu hỏi về vai trò của CIA. Các phương tiện truyền thông vạch trần những tồi tệ và thất bại của cơ quan tình báo.

Tình báo chính trị và công nghiệp

Hoạt động tình báo và gián điệp là những việc làm phổ biến nhất có quan hệ chặt chẽ với các chính sách đối ngoại của quốc gia, thời nay thông tin mật thì rất cần thiết cho các quyết định chính trị, thương mại và công nghiệp. Các đảng phái chính trị luôn quan tâm đến các kế hoạch chiến lược của các đối thủ hoặc trong bất kỳ thông tin nào có thể là ảnh hưởng đến uy tín của họ.

Ngày nay hầu hết những tập đoàn kinh doanh lớn đều có những bộ phận chủ yếu dùng cho kế hoạch chiến lược mà đòi hỏi phải có những báo cáo tình báo. Các công ty cạnh tranh không hề phủ nhận sự quan tâm của họ đối với các kế hoạch chiến lược của các đối thủ cạnh tranh mặc cho các luật lệ được đặt ra để ngăn cản.

Tất cả những hình thức và kĩ thuật của tình báo ngày nay được hỗ trợ bởi kĩ thuật thông tin liên lạc và các thiết bị tính toán, đo đạc nhanh. Các loại máy chụp ảnh và quay phim cực nhỏ dễ dàng giúp cho người sử dụng có thể chụp những tài liệu hình ảnh và phim bí mật. Các vệ tinh nhân tạo cũng là những công cụ tình báo – chúng có thể chụp ảnh phát hiện những thiết lập quân sự bí mật. Tiên phong trong những phát triển này là các loại điện thoại dùng công nghệ không dây, chúng có thể được cài trong phòng (đối với các loại có khả năng thu thanh) và các hình ảnh có thể chụp được trong bóng tối. Tuy nhiên, "vỏ quýt dày có móng tay nhọn", sự leo thang cạnh tranh đã dẫn đến sự ra đời các sản phẩm "chống lại" sản phẩm gián điệp.

Tình báo trong thời kì Chiến Tranh Việt Nam

Đầu năm 1961, cụm tình báo quân sự H.63 (ban đầu có tên là A18) ra đời, đóng tại căn cứ Bời Lời (Tây Ninh). Tất cả để phục vụ điệp viên nổi tiếng Hai Trung. Thời kỳ đầu, H.63 là bộ phận địch tình của thành ủy Sài Gòn. Khi Hai Trung (X6, Phạm Xuân Ẩn) từ Mỹ trở về, hoạt động giữa Sài Gòn với tư cách phóng viên báo nước ngoài, ông Mười Nho (Xuân Mạnh, Nguyễn Nho Quý - cán bộ Cục Tình báo) là người trực tiếp chỉ đạo. Năm 1962, ông Mười Nho bị bệnh, không thể chỉ huy H.63. Tư Cang là người được ông Ba Trần, Thủ trưởng Phòng tình báo miền lúc bấy giờ lựa chọn. Tháng 5/1962, Tư Cang chính thức được giao nhiệm vụ chỉ huy cụm H.63. Sau chiến tranh, "bộ máy" H.63 đã 2 lần trở thành anh hùng[40] (với những điệp viên tiêu biểu: Tư Cang, Hai Trung, Tám Thảo, Mười Nho, Nguyễn Thị Ba,...).

Một số biến cố xảy ra với chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam cũng được xem là sự thất bại của hệ thống tình báo khi đã không dự báo cũng như chặn đứng được vụ đảo chính năm 1960, vụ ném bom dinh độc lập của hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử (27/2/1962), và đỉnh điểm là vụ đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 làm sụp đổ cả chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tình báo http://www.bbc.com/vietnamese/av/2011/03/110314_vo... http://bigthink.com/think-tank/hacker-for-the-hell... http://www.highbeam.com/doc/1P2-31126850.html http://www.latimes.com/nation/la-na-17-intelligenc... http://www.t%E1%BB%AB-%C4%91i%E1%BB%83n.com/ph%E1%... http://vietmessenger.com/books/?author=nguoithutam http://nghiencuuquocte.org/2015/08/01/hiep-uoc-hel... http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Commemorati... http://www.independent.co.uk/news/world/americas/w... http://anninhthudo.vn/the-gioi/cuoc-chien-khoc-lie...